Saigon Nhỏ ngày 26.8.2005

Làm sáng tỏ thêm lịch sử

Tú Gàn

 

Trong tháng 8 vừa qua, đă có một tranh luận khá gay cấn trên đài BBC giữa ông Nguyễn Kỳ Phong và Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng về cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy”. Bài phê b́nh của ông Nguyễn Kỳ Phong dài 17 trang và bài trả lời của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng dài 7 trang.

   Như chúng tôi đă giới thiệu trên Saigon Nhỏ số ra ngày 10.6.2005, ông Nguyễn Tiến Hưng du học Hoa Kỳ từ 1958, đậu Tiến Sĩ Kinh Tế và dạy môn kinh tế tại một số trường đại Học Hoa Kỳ từ năm 1963. Từ 1966 đến 1970, ông là kinh tế gia của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Năm 1973, ông về làm Tổng Trưởng Kế Hoạch của chính phủ VNCH và là Phụ Tá về Tái Thiết của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, phụ trách việc điều phối viện trợ kinh tế trên toàn quốc. Trong thập niên 1990, ông làm Cố Vấn cho Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và Ngân Hàng Thế Giới (WB) về nhiều dự án chuyển đổi kinh tế và cứu đói giảm nghèo, kể cả tại Việt Nam sau đổi mới. Hiện ông là Giáo sư trường Đại Học Howard tại Washington DC.

   Ông Nguyễn Kỳ Phong là thành phần trẻ, năm nay mới 49 tuổi, tốt nghiệp về sử học tại Hoa Kỳ, tác giả hai cuốn “Người Mỹ và Chiến Tranh Việt Nam và dịch giả cuốn “The Final Collapse”, có tên tiếng Việt là “Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa” của Đại Tướng Cao Văn Viên, và cuốn “Indochina Monographs LAM SON 719” của Tướng Nguyễn Duy Hinh. Hiện nay ông là một chuyên viên nghiên cứu về quân sử.

   Chúng tôi nghĩ rằng cuộc tranh luận giữa hai nhân vật này có thể giúp độc giả hiểu biết thêm về những bí ẩn đàng sau cuộc chiến Việt Nam, nên xin trích lại lại dưới đây những phần chính với một vài nhận xét. Nguyên văn hai bài này sẽ được lần lượt đăng trên Saigon Nhỏ trong những số tới.

   NHỮNG VẤN ĐỀ TRANH LUẬN

   Dưới đầu đề Điểm Sách “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” của tác giả Nguyễn Tiến Hưng, ông Nguyễn Kỳ Phong đă mở đầu bài viết như sau:

   “Mười chín năm từ ngày cho xuất bản quyển The Palace File (bản dịch Việt ngữ, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập), một tác phẩm gây được nhiều chú ư lúc đương thời với một số tài liệu mật chưa hề công bố, tháng vừa qua, tác giả Nguyễn Tiến Hưng vừa cho ra mắt một tác phẩm với tựa đề rất hấp dẫn: Khi Đồng Minh Tháo Chạy (KĐMTC).

   “Nh́n sơ qua, trong khi Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập (HSMĐDL) viết cho đối tượng chính là độc giả Mỹ và đọc giả quen thuộc sử liệu và cập nhật với t́nh h́nh chính trị quân sự Mỹ - Việt 1969 - 1975, KĐMTC với một văn phong đơn giản, nhắm vào đối tượng độc giả không quen thuộc nhiều với sử liệu hay nội t́nh chính trị Hoa Kỳ vào những năm cuối cùng của liên hệ Việt-Mỹ.”

   Tiếp đến, ông Nguyễn Kỳ Phong đă có những nhận xét tổng quát về cuốn KĐMTC như sau:

   “Ư nghĩ đầu tiên sau khi đọc KĐMTC là những ai đă đọc HSMDĐL rồi, th́ sẽ thấy thất vọng sau khi đọc KĐMTC. Buông quyển KĐMTC xuống, người điểm sách có cảm tưởng ḿnh vừa đọc lại bản dịch Việt ngữ của The Palace File—chỉ khác là bản dịch này kém hơn bản dịch HSMDĐL của Cung (Thúc) Tiến trước đây. Trong căn bản, KĐMTC không có ǵ mới so với HSMDĐL. Nếu có khác th́ khác ở chổ KĐMTC không được soạn thảo cẩn thận như HSMDĐL.

   “Một trong nhiều lư do làm người đọc thất vọng là trong khi tác phẩm HSMDĐL, với sự hợp tác của Jerrol L. Schecter (một thời chủ biên mục ngoại giao của tuần báo Time, mà tác giả có khi ghi là chủ bút), được soạn thảo rất cẩn thận, rất giáo khoa. Trong khi KĐMTC, mặc dù có nhiều đoạn được dịch thẳng từ HSMDĐ,ø có nhiều sai lầm và lệch lạc - do sự cẩu thả của người đánh máy hay sự bất cẩn của tác giả. Trong khi trong HSMDĐL có những chi tiết có thể gây ra tranh luận, nhưng những chi tiết đó được tŕnh bày với dẫn chứng và bằng sử liệu. Nhưng trong KĐMTC, nhiều chi tiết đă làm độc giả găi đầu v́ tác giả không cung cấp một tài liệu nào để chứng minh cho những nhận định đưa ra...”

   Sau đó, ông Nguyễn Kỳ Phong đă đưa ra nhiều trích dẫn hay nhận định trong cuốn KĐMTC mà ông cho rằng không đúng, cân phải được điều chỉnh lại, Sau đây là những đoạn chính. (Các tiêu đề là do chúng tôi thêm vào để giúp độc giả dễ theo dơi và nhiều chữ hay câu đă được được chúng tôi tô đậm để nhấn mạnh).

   1.- Chuyện nhờ Thiệu Nixon đắc cử

   Chương Một - người điểm sách nghĩ là chương quan trọng nhất trong KĐMTC - tác phẩm bắt đầu từ giai đoạn Nixon ra tranh cử cho đến khi được đắc cử tổng thống. Chương này muốn nói nhờ tổng thống Thiệu mà Nixon mới đắc cử tổng thống: Tác giả ghi lại sự ưng thuận và giúp đỡ ngầm của ông Thiệu để giúp Nixon thắng phó tổng thống Hubert Humphrey trong mùa tranh cử 1968. Nhưng sau khi thắng cử trở thành tổng thống, Nixon bội ước, quên ơn của VNCH và ông Thiệu, và bắt đầu kế hoạch rút quân khỏi Việt Nam để chấm dứt sự liên hệ của Hoa Kỳ ở Vịêt Nam bằng mọi giá.

   Chương Một là chương lư thú v́ tác giả viết về một nhân vật mà ít độc giả Việt Nam quen tên: bà goá phụ Anna Chan Chennault - người liên lạc sau lưng giữa ứng cử viên Nixon và tổng thống Thiệu bắt đầu từ tháng 6-1968. Độc giả Việt không quen thuộc với tên Anna Chennault v́ tám năm sau khi vụ liên lạc bí mật giữa bà Chennault, Nixon, đại sứ Bùi Diễm và tổng thống Thiệu, th́ sự vụ mới lộ ra trên báo chí (năm 1969, kư giả lăo thành Theodore H. White, trong The Making of the President 1968, có nhắc đến vai tṛ của Chennault và ông Thiệu trong kết quả bầu cử, tuy nhiên cho đến lúc đó, trừ các cơ quan t́nh báo như FBI; CIA; và National Securty Agency là có bằng chứng chắc chắn, tất cả chỉ là tin đồn lúc đương thời). Năm 1976 tác giả David Wise, trong The American Police State, có nhắc sơ qua vụ này; đến năm 1979, Thomas Powers, trong một tác phẩm viết về cuộc đời của xếp CIA Richard Helms, The Man Who Kept the Secrets: Richard Helms and the CIA, viết nhiều chi tiết hơn về liên hệ giữa bà Chennault và ông Thiệu. Nhưng độc giả Mỹ phải chờ đến năm 1980 khi chính bà Chennault cho xuất bản cuốn hồi kư The Education of Anna th́ phần lớn sự thật mới được phơi bày từ chính người trong cuộc. Về phía thư liệu Việt ngữ, theo sự hiểu biết của người điểm sách, chỉ có hai tác phẩm nói đến bà Chennault: Nguyễn Tiến Hưng, năm 1986, trong The Palace File (mà trong đó ông Hưng trích theo The Price of Power (1983) của Seymour Hersh); và năm sau, 1987, cựu đại sứ Bùi Diễm nói rơ hơn trong hồi kư In the Jaws of History.

   Năm 1998, sau khi tất cả đă ch́m vào quên lăng, một nhân vật có liên hệ sâu đậm đến VNCH và những bí mật của vụ Chennault, cựu thứ trưởng Vụ Viễn Đông William Bundy (và là một nhân viên CIA cao cấp trước đó) cho xuất bản quyển A Tangled Web: The Making of Foreign Policy in the Nixon Presidency. Trong tác phẩm, Bundy xác định lại nhiều chi tiết đă viết trong In the Jaws of History của Bùi Diễm. Bundy, với cương vị thứ trưởng Vụ Viễn Đông đương thời, chắc chắn đă đọc những báo cáo mật về những liên lạc giữa ông Thiệu, Bùi Diễm, Nixon, Nguyễn Văn Kiểu (anh tổng thống Thiệu, đại sứ VNCH ở Đài Loan), Chennault và những người đại diện Nixon...

   Vụ Chennault vis-a-vis bầu cử tổng thống Mỹ 1968 là một sự kiện quan trọng trong lịch sử chiến tranh Việât Nam cũng như lịch sử bầu cử tổng thống Mỹ. Cả hai tổng thống Nixon và Johnson, nhưng v́ tính chất tối mật của vấn đề, không hề nhắc đến tên bà Chennault trong hồi kư, dù trong năm bầu cử đó bà Chennault đă quyên được 250 ngàn mỹ kim cho Nixon, một món tiền rất lớn vào năm 1968 (đọc Theodore White, sđd, trang 444). William Bundy, trong tác phẩm nói trên, tuyên bố cuộc bầu cử năm 1968 là cuộc bầu cử tổng thống Mỹ duy nhất mà kết quả có thể đă bị ảnh hưởng bởi một chánh quyền ngoại quốc.

   Như độc giả đă thấy, tất cả sử liệu tác giả trích cho chương này lấy lại từ tác phẩm HSMDĐL, và dựa vào những phỏng vấn với bà Chennault. Tuy nhiên hơn 20 năm đă qua, tất cả những sử liệu đó quá cũ. Những sử liệu mới như của William Bundy, Bộ Ngoại Giao, hồi kư của tổng trưởng quốc pḥng Clark Clifford (Counsel to the President: A Memoir) là những sử liệu sáng tỏ hơn mà lẽ ra tác giả phải xử dụng để cập nhật thêm vào KĐMTC. Người điểm sách cũng để ư một điều: tác giả KĐMTC quá tin vào những ǵ bà Chennault nói (qua phỏng vấn) mà không để ư hay đọc những ǵ bà Chennault viết, hay các tài liệu khác viết về bà Chennault. Một thí dụ: Bà Chennault viết trong hồi kư (và nói với tác giả khi trong phỏng vấn) là bà không nhớ John Mitchell (cố vấn ủy ban bầu cử Nixon) hay chính Nixon muốn bà đưa đại sứ Bùi Diễm đến gặp Nixon ở New York... Nhưng qua tác phẩm của William Safire (Before the Fall: An Inside View of the Pre-Watergate White House) chúng ta thấy chính Chennault là người tự viết thư đề nghị cuộc gặp mặt đó (Safire có chụp lại lá thư đề nghị của Chennault trong sách).

   2.- Chuyện ông McNamara

   Trang 35 và 181 trong KĐMTC tác giả viết về tinh thần của tổng trưởng quốc pḥng Robert McNamara. Tác giả nói dù McNamara nghi ngờ về kết quả cuộc chiến ngay từ lúc ông đem quân vào miền Nam nhưng ông vẫn tiếp tục... chỉ v́ ông muốn làm vừa ḷng tổng thống Johnson để hy vọng được bổ nhiệm vào chức chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới! Nhận định như vậy th́ sẽ làm nhiều độc giả am tường sử liệu về McNamara nhức đầu.

   McNamara không nghĩ ǵ về Ngân Hàng Thế Giới (NHTG), hay muốn về làm chủ tịch cho đến mùa Thu năm 1967 - một vài tháng trước khi ông từ chức. Trong hai tác phẩm của tác giả (nói là hai tác phẩm nhưng thật ra chỉ có một về phương diện sử liệu) chúng ta không thấy tác giả đọc hay chú một tác phẩm nào về McNamara, để cho chúng ta thấy kết luận của tác giả có quan sát và nghiên cứu...

   McNamara biết về NHTG một cách bất ngờ: George Woods, đương kim chủ tịch NHTG, bất th́nh ĺnh đến ăn trưa với McNamara, và nói ông rất thích bài diễn văn của McNamara đọc ở Montreal về an ninh và phát triển kinh tế thế giới. ... Ông đề nghị McNamara vào làm chủ tịch khi ông từ chức vào cuối năm 1968. Với nhiều lo âu về những tiến triển bi quan trong cuộc chiến ở Việt Nam; với những buồn phiền về cái chết của người bạn thân (John McNaughton, hàng thứ ba ở bộ quốc pḥng; bạn thân từ Harvard, chết v́ tai nạn máy bay), McNamara bàn với vợ suốt đêm về chuyện NHTG. Vào giữa tháng 10-1968, khi thổ lộ với Johnson ông muốn từ chức, Johnson hỏi ông muốn tiếp tục phục vụ ở bất cứ một cơ quan nào không... McNamara trả lời chỉ có NHTG là nơi ông muốn phục vụ, nếùu ông c̣n phục vụ chính phủ. Và Johnson bổ nhiệm McNamara vào chức chủ tịch The World Bank một cách bất ngờ đến độ McNamara chỉ biết khi đọc tin trên báo (đọc Shapley, sách đă dẫn, trang 416-427; Hồi kư của tổng thống Johnson, The Advantage Point: Perspectives of the Presidency, 1963-1969, trang 20, cũng nói tương tự như vậy).

   Chúng ta đều biết, trước khi nhận lời (v́ nể) Kennedy về làm tổng trưởng quốc pḥng, McNamara đang là chủ tịch hăng xe Ford với lương tháng 410 ngàn mỹ kim một năm (năm1960). Chỉ mới bốn mươi bốn tuổi đầu, McNamara là vị giám đốc trẻ tuổi nhất và là người đầu tiên làm giám đốc hăng Ford mà không thuộc gịng họ Ford! Khi mời McNamara về tham gia nội các, Kennedy đă cho ông hai chọn lựa: tổng trưởng tài chánh hay quốc pḥng. Trong khi đó, Ngân Hàng Thế Giới của năm 1968 chỉ là một cơ quan quốc tế nhỏ, tiền cho vay hàng năm chưa đến một tỉ; có khoảng 1.600 nhân viên; không có thế lực chính trị v́ Nga và Trung Cộng vẫn chưa là hội viên. Ai muốn làm chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới nếu có chọn lựa làm tổng trưởng Tài Chánh hoặc Quốc Pḥng?

   Trong phần lịch sử NHTG do chính cơ quan này viết, những tác giả cũng nói sự bổ nhiệm của McNamara là ngoài dự tính của đương sự. H.R. McMaster, trong một tác phẩm gần như kết án McNamara, Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs of Staff and the Lie That Led to Vietnam, cũng không kết án McNamara như vậy. Khi tác giả Nguyễn Tiến Hưng viết McNamara gia tăng đem quân vào việt Nam; mù quáng gia tăng cuộc chiến chỉ để làm vừa ḷng tổng thống, hầu hy vọng được bổ nhiệm làm giám đốc Ngân Hàng Thế Giới, th́ chỉ là một suy luận vô căn cứ cho MacNamara. Robert Strange McNamara không bao giờ có ư định đó.

   3.- Kissinger ông là ai?

   Chương Hai, “Kissinger, Ông Là Ai?” Chương này cũng khá quan trọng, nói về Henry Kissinger, người mà theo tác giả, đă đơn thân độc mă dàn xếp cuộc thương lượng giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt, và đă ép buộc VNCH kư vào tờ khai tử của ḿnh ngày 27 tháng Giêng, 1973. Ở chương Hai, cũng như Chương Một, tác giả dựa vào những tài liệu của 19 năm trước, không có ǵ mới trên phương diện sử liệu. Ở vài nơi, tác giả viết hoàn toàn sai lạc.

   Ngay phần mở đầu chương, trong đoạn văn tả về cậu bé Heinz (tên thật của Kissinger lúc chưa đổi ra Henry), h́nh như tác giả đă đọc lầm, hay hiểu lầm nguyên tác Anh văn: trong hai quyển kỷ truyện được gọi là căn bản về Kissinger, (Kissinger, của Marvin Kalb và Bernard Kalb; và Kissinger: A Biography, của Walter Isaacson), cả hai tác phẩm đều nhắc lại một thói quen của Kissinger lúc ông c̣n nhỏ: ông băng qua đường khi trên đường đi có những đám trẻ khác tiến về hướng ông. Ư muốn nói, v́ là gốc Do Thái, lúc c̣n nhỏ ông thường bị đám trẻ con Đức ăn hiếp lúc c̣n ở quê nhà... nên thói quen là ông băng qua đường, đi lối khác cho yên chuyện. Dù đă đến Mỹ nhung ông vẫn c̣n thói quen đó. Nhưng trong đoạn văn mở đầu của Chương 2, tác giả viết Kissinger rất cẩn thận, thường chờ xem có đám trẻ nào đi qua đường th́ mới theo sau cùng băng qua những con đường ở New York. Thật khó hiểu đoạn văn này xuất từ đâu, v́ tác giả không ghi chú thích. Nhưng theo những ǵ người điểm sách đă đọc, câu văn bị tác giả hiểu lầm ở trên xuất phatù từ Kalb (trang 31, sđd) hay làø Isaacson (trang 33, sđd).

    Trong KĐMTC, trang 58, khi nói về Kissinger, tác giả Hưng viết: “Chính phủ Johnson đồng ư và ngày 21 tháng Bảy 1967, hai người Pháp [Herbert Marcovich và Raymond Aubrac] cùng với Kissinger bay ra Hà Nội gặp thủ Tướng Phạm Văn Đồng.” Nhưng chuyện Kissinger đi chung với hai người Pháp qua Hà Nội gặp Phạm Văn Đồng năm 1967 là chuyện hoàn toàn không có. Hồi kư của chính Kissinger không có chuyện đó. Một trong những quyển sách rất hay viết về cuộc đời của Kissinger (Walter Isaacson, Kissinger) cũng không ghi là Kissinger đă đến Hà Nội trong cuộc thương lượng mật có bí danh Pennsylvania vào năm 1967. Cuốn sách căn bản nhất về mật vụ Pennsylvania và những trao đổi bí mật đầu tiên giữa Hoa Kỳ và Hà Nội, The Secret Search for Peace in Vietnam, của hai tác giả David Kraslow và Stuart H. Loory, cũng không có chi tiết chuyện Kissinger đi Hà Nội năm 1967. Tác giả chú sử liệu nằm ở trang 86 trong sách của hai anh em Marvin Kalb và Bernard Kalb, Kissinger, nhưng trong sách không có viết như vậy. (Thật ra, không phải trang 86, mà là trang 71...)

   4.- Chuyện Tướng Thiệu ra di

   KĐMTC, trang 391-392, tác giả nói về đêm tổng thống Thiệu ra đi. Tác giả tả sơ là tổng thống Trần Văn Hương kư một nghị định chính thức đề cử ông Thiệu làm đặc sứ VNCH, cho phép ông đi Đài Loan để phúng điếu cố tổng thống Tưởng Giới Thạch chết cách đó một tháng. Trong chuyến xe đi ra phi trường, tác giả tả ông Thiệu ngồi giữa băng sau, ngồi hai bên là xếp CIA Pogar và tướng Timmes. Chi tiết này tác giả dựa vào phỏng vấn với Polgar và sử liệu của Frank Snepp (chú thích 34, 35, 36 trong KĐMTC). Nhưng nếu độc giả đọc lại The Palace File (trang 332), th́ thấy tác giả viết và chú khác đi. Frank Snepp trong Decent Interval, thuật lại câu chuyện hoàn toàn khác. Snepp - lúc đó là tài xế - nói ông Thiệu ngồi giữa tướng Timmes và một cận vệ, chớ không phải giữa Timmes và Polgar (Snepp, trang 434-437). Lời của anh nhân chứng tài xế này có lư: V́ như đă nói, Polgar và Timmes được lệnh đi kèm hai ông Thiệu và Khiêm ra phi trường. Nếu hai người này ngồi trong xe với ông Thiệu th́ ai ngồi với ông Khiêm xe kia? Trong The Palace File tác giả chú thêm tài liệu của David Butler (mà tác giả không chú trong HSMDĐL), nhưng đọc Butler th́ thấy Butler tả khác những ǵ được tả trong KĐMTC: chiếc xe đi trước có ông Khiêm và Polgar; xe sau có ông Thiệu và tướng Timmes (đọc, Butler, The Fall of Saigon, trang 351-353). Tác giả đă chú nhiều chi tiết theo tác phẩm của Frank Snepp, trừ chi tiết đó.

   Đọc cùng trang đă dẩn trên trong sách của ông Hưng và Snepp, chúng ta cũng thấy được sự khác biệt về những lời trao đổi cuối cùng giữa ông Thiệu và đại sứ Martin. Về chuyện tổng thống Hương kư công hàm cho ông Thiệu rời khỏi nước: Trong sách The Palace File, cùng trang đă dẫn trên, tác giả cho ta thấy không những tổng thống Hương mà cả Polgar đă cung cấp giấy xuất ngoại cho ông Thiệu (một chi tiết mà tác giả không nói đến trong KĐMTC). Nhưng theo Snepp, ông Hương không có cấp giấy, và Polgar th́ quên cấp giấy cho ông Thiệu như đại sứ Martin đă yêu cầu. Snepp nói chính Martin thuật lại chuyện đó cho ông nghe (Snepp; op. cit., ibid.). Một nhân chứng khác, trung tướng Trần Văn Đôn, trong Việt Nam Nhân Chứng, trang 467, nói sáng thứ Sáu, 25 tháng 4, ông Thiệu gọi ông lúc 8 giờ 30 sáng, muốn ông đến dinh Độc Lập gặp ông Thiệu. Trong khi gặp, ông Thiệu nhờ ông Đôn lấy dùm cho bạn ông Thiệu một giấy chiếu khán để đi ngoại quốc (trong thời gian đó, ông Đôn là xử lư thường vụ chức tổng trưởng quốc pḥng; xử lư thường vụ là v́ ông Đôn là tổng trưởng quốc pḥng trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, nhưng nội các ông Cẩn vừa từ chức vài ngày trước). Những sự thiếu sót về sử liệu này có thể gây ra sự hiểu lầm là tác gỉa chỉ trưng bày sử liệu một chiều.”

   Trên đây là những điểm chính về bài phê b́nh tác phẩm KĐMTC của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng.

   NHỮNG LỜI PHẢN PHÁO

   Sau khi đài BBC trích dẫn những phê b́nh của ông Nguyễn Kỳ Phong về cuốn KĐMTC, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đă gởi đến đài này bài “Nhận xét về bài cuả Nguyễn Kỳ Phong điểm sách KHI ĐỒNG MINH THÁO CHẠY” dài 7 trang, được đài BBC phổ biến ngày 16.8.2005. Bài này gồm hai phần chính:

  Phần thứ I dưới tiêu đề “Về những nhận xét chung”, ông Hưng đă trả lời vắn tắt về đối tượng của KĐMTC, các lỗi typos, các ghi chú, việc xử dụng tài liệu, và việc so sánh hai tác phẩm HSMĐL và KĐMTC. Ở phần này, ông đă phang ông Nguyễn Kỳ Phong khá nặng. Ông viết: “Khi kết thúc bài, ông cũng không quên nhắc lại rằng KĐMTC chỉ “hữu ích cho giới độc giả v́ một lư do nào đó không cập nhật với sử liệu, hay không rành về liên hệ Hoa Kỳ-Việt Nam v́ giới hạn ngôn ngữ.” Tôi ngạc nhiên v́ thái độ “elitist”, mục hạ vô nhân của NKP.”

   Phần thứ II dưới tiêu đề “Những nhận xét về nội dung”, ông Hưng nói đến ấn tượng đầu tiên khi đọc bài phê bính, luận thuyết của ông Nguyễn Kỳ Phong, và những điểm ông Phong nêu lên trong một số chương.

   Nh́n chung, ông Hưng gần như không trả lời trực tiếp những phân tích của ông Phong mà chỉ đưa ra những luận giải về cuốn sách của ông. Ông Hưng viết:

   “Về chủ yếu, cuốn KĐMTC đưa ra bốn luận điểm. Thứ nhất, cách đối xử của Washington với Sàig̣n từ 1969 đến 1975 tráo trở đến mức tạo nên một sự phản bội đồng minh chưa từng có trong lịch sử Hoa Kỳ; thứ hai, sự phản bội ấy lại được dấu kín trong bóng tối, nhân dân Hoa Kỳ không hay biết, và như vậy, đă trái hẳn với nguyên tắc trong sáng (transparency) của thể chế dân chủ; thứ ba, tới lúc tháo gỡ, cái cung cách bỏ chạy lại thật phũ phàng nếu không nói là tàn nhẫn; và thứ tư, hậu quả của cung cách ấy đă rất phương hại cho uy tín của nền ngoại giao Hoa Kỳ; như ĐS Martin đă tâm sự: Hậu quả cuả cái cung cách bỏ chạy là làm cho ‘đồng minh th́ không dám tin, và thù địch th́ lại coi thường nước Mỹ.’ Ta tự hỏi: Có phải chăng Saddam Hussein, A-Qaeda đă coi thường nước Mỹ hay không?

   “Thật rất tiếc là trong suốt bài điểm sách dài như thế, NKP không b́nh luận ǵ về những luận điểm quan trọng này. Có thể là v́ đă quá mải mê săm soi tỉ mỉ những tiểu tiết không quan trọng để chứng minh rằng cuốn KĐMTC chẳng có ǵ mới lạ, nên ông đă quên hẳn đại cuộc: NKP đă “nh́n cây mà chẳng thấy rừng”. Thảo nào ông đă “thất vọng” là phải rồi.

   “Vừa vào phần điểm các chương sách, ông viết: “Chương Một - người điểm sách nghĩ là chương quan trọng nhất trong KĐMTC” (theo như bài đăng trên mạng cuả BBC ngày 8/8/2005). Chỉ đọc nguyên câu này tôi cũng hiểu rằng NKP đă đi lạc hướng ngay từ đầu. Và do đó đă có “domino effect,” càng đi xa lại càng lạc thêm. Đối với tác giả, Chương Một lại là chương ít quan trọng nhất. Đó là v́ nó chỉ nói đến background của việc ông Nixon được bầu làm Tổng Thống một phần là cũng nhờ ở thái độ của Miền Nam. Trong chương này, chuyện nên để ư nhất lại là (a) việc hai phe tranh cử - Dân Chủ và Cộng Hoà - cứ cố kéo ông Thiệu đi hai hướng ngược nhau; và (b) “mưu lược cuả ông Thiệu,” chứ không phải là chuyện bà Anna Chennault. Bà này chỉ là người trung gian, một messenger, ví như một cây cảnh trên sân khấu của một bi kịch lớn. V́ thế, nói về bà th́ tôi chỉ kể phớt qua trong mấy ḍng, và kể theo như những ǵ bà đă kể lại cho nghe trong những khi ghé thăm bà (ở ngay cao ốc Watergate). Chỉ có vậy thôi. Nhưng NKP lại lôi ra nhiều sách nói về bà này để b́nh luận dài ḍng, dài tới một trang rưỡi. Sau bà Chennault, đến chuyện McNamara. Về ông này tôi cũng chỉ nói sơ qua v́ ông ta không phải diễn viên chính của tấn thảm kịch “Khi” đồng minh tháo chạy. NKP lại mang các sách Mỹ ra để viết ḷng tḥng về McNamara. Thêm một trang rưỡi nữa.

   “Chương Hai, “Kissinger, ông là ai?” cũng giống như Chương Một, chỉ nhằm nói qua đến background. Điểm đáng b́nh luận trong chương này là về “con người” của ông Kissinger: Có đúng hay không rằng ông ta lắt léo, quanh co, đi nước đôi, làm cố vấn cùng một lúc cho cả hai đảng ḱnh chống nhau. Đặc tính của ông ta có phải là “độc đoán” không? Một lọai người “maverick” chỉ thích hành động “đơn thương độc mă,” v́ ông ngưỡng mộ mô h́nh chuyên chế của Metternich? “Điểm chính là lúc nào tôi cũng hành động một ḿnh,” ông ta đă nói với kư giả Oriana Fallacy như vậy. Ông c̣n khuyên các nhà lănh đạo: “Chính khách phải hành động như thể là trực giác của ḿnh đă là kinh nghiệm, như thể là khát vọng cuả ḿnh đă là chân lư rồi” (xem KĐMTC, trang 66). Thay v́ bàn đến những điểm này, NKP lại b́nh về việc tôi viết về cậu bé Heinz (Henry) đi băng qua đường ở trên New York, việc ông Kissinger không có bay đi Hànội cùng với hai người Pháp Hervert Marvich và Raymond Aubrac (mà chỉ bí mật liên lạc với Hà Nội qua hai ông này, như đă viết ở trang 325). Cũng ở Chương Hai, NKP c̣n đặt vấn đề: Chính ông Averell Harriman (NKP viết là Averel) mới là trưởng đoàn của phiá Mỹ tại Hoà Đàm Paris chứ Cyrus Vance chỉ là phó. Tôi c̣n nhớ là hồi ấy Harriman bị phái đoàn Hà Nội chê là điếc; trong thực tế, ông Vance đă làm việc nhiều hơn...”

   “Từ Chương Ba, nhảy ngay sang Chương Tám, “Năm Định Mệnh”, NKP b́nh luận về việc tôi nói qua tới t́nh h́nh chiến trường vào cuối hè 1974, ông cho là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đă không thành công trong việc dùng SĐ1 và BĐQ để lấy lại các địa điểm bị chiếm nên đă phải yêu cầu SĐ Dù tới giải quyết. NKP nên nhớ rằng Tướng Trưởng là Tư Lệnh QĐ I, SĐ Dù tăng phái hay SĐ I th́ cũng là dưới quyền xử dụng cuả ông. Chuyện máy bay F-5E th́ miễn nói. Chính tôi là nhân chứng, và c̣n giữ những notes về các buổi họp tại Bộ QP Hoa Kỳ, bay đi Century City cùng với ông Von Marbod để gặp chủ tịch hăng Northrop là ông Thomas Jones (sản xuất máy bay); ông Jones c̣n gửi biếu TT Thiệu một model máy F-5E bằng plastic, và ông Thiệu để ngay đàng sau bàn họp (xem h́nh trang 271).

     “Lại bỏ qua hai chương quan trọng nưă (Chương Chín-Mười), NKP bàn đến Chương Mười Một, “Che Dấu QH và Nhân Dân Hoa Kỳ.” Thêm một điều khó hiểu: không thấy người điểm sách nói ǵ đến những hành động thiếu luân lư, che dấu QH Hoa Kỳ về những thư cầu cứu cuối cùng của Tổng Thống và Quốc Hội VNCH gửi TT và QH Hoa kỳ. Thay vào đó, NKP lại bàn đến Bộ Trưởng QP James Schlesinger. Ông này là thày tôi 3 năm tại UVa và tôi đă họp với ông ta nhiều lần trong những chuyến công tác tại Washington (1973-75) nên đă thấy rất rơ về sự thờ ơ, có thể nói là chống đối sự yểm trợ Miền Nam. Phước Long mất rồi mà ông cứ cố t́nh giảm thiểu tầm quan trọng cuả cuộc chiến. Sách KĐMTC đă viết nhiều về việc này (xem Index). Khi ông được đọc hai lá thư cuả TT Nixon do tôi gửi qua tay Von Marbod, ông đă “giác ngộ”. Giác ngộ ở đây có nghĩa là ông đả bắt đầu nhận thức được hành động ám muội cuả Kissinger, và do đó ông ta biết đă có sự bất công đối với nhân dân Miền Nam; ông phàn nàn: “Tôi tin rằng TT Ford đă bị lưà bịp về những lá thư này,” và: “Quốc Hội không hề hay biết chút ǵ về mấy lá thư đó khi họ bắt đầu chạy làng (bugging out) khỏi Việt Nam vào muà hè 1973” (KĐMTC, trang 430). “Giác ngộ” là vậy chứ không phải như NKP lư giải là nhờ đọc được hai thư Nixon mà Schlesinger mới hiểu được t́nh h́nh nguy ngập ở chiến trường...”

   Ông Hưng kết luận:

   “NKP đi đến kết luận rằng “Đối với một số độc giả đă quen thuộc với sử liệu... họ c̣n phải chờ một tác phẩm khác của Nguyễn Tiến Hưng, hơn là KĐMTC.” Dĩ nhiên tôi sẽ c̣n viết thêm chứ. Nhưng đừng chờ tôi. Tôi đă viết hai cuốn sách The Palace File và KĐMTC để trực diện với đồng minh, với cả thế giới; và để người đồng hương t́m câu trả lời cho bao nhiêu thắc mắc c̣n nặng ḷng trong 30 năm qua. Bây giờ phải đến lượt thế hệ trẻ hơn, như thế hệ của NKP chẳng hạn, đặc biệt v́ ông đă xác định ông là “nhà nghiên cứu quân sự.” Họ nên tiếp nối công việc của chúng tôi v́ c̣n biết bao vấn để cần đào sâu, biết bao lấn cấn hăy c̣n đó. Một ví dụ cho nhà nghiên cứu quân sự: Viết về thất bại thê thảm cuả chiến dịch Lam Sơn 719 (đánh sang Lào, bắt đầu ngày 8 tháng 2, 1971), giới truyền thông Mỹ đổ lỗi cho quân đội VNCH; có báo c̣n in h́nh một người lính Miền Nam bám đong đưa vào chiếc trực thăng, rồi phê ở dưới “Thỏ đế” (rabbit). Có thật là QLVNCH đă hèn nhát như vậy không, hay là chỉ có một người lính? Hăy đem tài và tâm ra truy cứu hết sự thật để soi sáng cho lịch sử. V́ có như vậy mới trả được cho Ceasar những ǵ thuộc về Ceasar.”

   CẦN PHẢI NHẬN ĐỊNH LẠI

   Đọc bài trả lời của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng về bài phê phán của ông Nguyễn Kỳ Phong, tôi có cảm tưởng như đây là một cuộc tranh luận giữa hai người điếc.

   Nh́n chung, chúng tôi thấy ông Nguyễn Kỳ Phong đă nghiên cứu rất công phu khi viết bài phê b́nh nói trên. Trong một cuộc nói chuyện qua điện thoại, ông cho biết ông đă mất 14 ngày để nghiên cứu và viết bài đó. Chúng tôi thấy những chi tiết ông nêu ra rất hữu ích cho các nhà nghiên cứu khi t́m hiểu về lịch sử cuộc chiến Việt Nam. Chúng tôi không ngờ ông Nguyễn Tiến Hưng đă tiếp nhận bài phê b́nh đó với một thái độ như vậy.

   Trong suốt 45 năm qua, chúng tôi là người viết liên tục và viết rất nhiều, ngoại trừ những năm ở tù, nên hiểu rơ rằng những sự lầm lẫn là chuyện khó tránh được v́ nhiều lư do: nguồn tài liệu cung cấp không chính xác, khảo cứu chưa đầy đủ, những định kiến đă có từ trước, không nhận ra được mặt trái đàng sau của vần đề... Ngay cả khi trích dẫn, chúng tôi cũng có những sai lầm ngoài ỳ muốn, như trong tài liệu ghi một tác giả sinh năm 1905, nhưng khi đánh mày, chúng tôi lại đánh thành 2005! Chính độc giả là những người đă giúp chúng tôi hiệu đính nhiều chi tiết rất hữu ích. Chúng tôi nghĩ rằng ông Hưng nên chân thành cám ơn ông Phong hơn là có thái độ bất b́nh. Chuyện trích dẫn hay nhận định sai một số sự kiện lịch sử và chuyện tố cáo Hoa Kỳ phản bội đồng minh là hai chuyện hoàn toàn khác nhau, không thể ráp nối vào nhau như thế được.

   Khi đọc cuốn “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập”, chúng tôi chân thành cám ơn ông Nguyễn Tiến Hưng về những sử liệu quư báu lúc đó ít ai biết. Nhưng phần nhận định của ông, nhất là trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, có rất nhiều điểm cần được thảo luận lại, nhất là chuyện đồng minh phản bội và các phản ứng của Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Trên Saigon Nhỏ số ngày 10.6.2005, khi nói về cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, chúng tôi đă bàn qua hai vấn đề này. Trước đó, khi nói về trận Hạ Lào, trận Thường Đức, trận Phước Long, trận Ban Mê Thuột, việc rút khỏi Quân Khu II và Quân Khu I... chúng tôi cũng đă đưa nhiều tài liệu chứng minh Tướng Thiệu đă phạm nhiều lỗi lầm nghiêm trọng khi lănh đạo quốc gia, đưa đến mất miền Nam Việt Nam. Kế hoạch “Đầu Bé Đít To” của ông trở thành kế hoạch tự sát! Ông Hưng khó biện minh cho những sai lầm này.

   Chúng tôi nhớ lại, sau khi chúng tôi dựa vào tài liệu của cuốn “Vietnam from Cease-Fire to Capitulation” (VN Từ Đ́nh Chiến đến Đầu Hàng) của Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ do Đại Tá William E. Le Gro biên soạn để nói về sự thất bại của Quân Lực VNCH trong việc bảo vệ tiền đồn quan trọng Thường Đức năm 1974, và dựa vào những tài liệu của cuốn “Vietnam at War the History: 1946-1975” của Tướng Phillip B. Davidson viết về Cuộc Hành Quân Lam 719 để nói về những thiệt hại nặng nề của Quân Lực VNCH trong trận này, một đại úy Dù quen biết đă gặp tôi và nói rằng những sử liệu Mỹ đưa ra đều sai bét. Trong cả hai trận đó, Quân Lực VNCH đều thắng lớn. Anh cho rằng Quân Đội VNCH là quân đội bách chiến bách thắng, không bao giờ thua trận. Tôi hỏi anh rằng nều không thua trận, tại sao miền Nam bị mất, anh trả lời rất ngon lành: “Tại v́ Mỹ bỏ, Mỹ phản bội!”

   Tôi có hai ư kiến với anh ta như sau:

   Ư kiến thứ nhất: Muốn chứng minh tài liệu Mỹ ghi về những trận đánh của Quân Lực VNCH là sai, chúng ta cần đưa ra những tài liệu để chứng minh ngược lại và đưa vào thư viện Mỹ. Các sử gia và thế hệ mai sau không bao giờ tin vào những lời tuyên bố khơi khơi của ḿnh đâu.

   Ư kiến thứ hai: Viêt Nam là tổ quốc của ḿnh, ḿnh phải chiến đầu để bảo vệ bằng mọi giá, như cha ông chúng ta đă làm trong quá khứ. Nếu bảo rằng v́ Mỹ phản bội nên ta bỏ chạy th́ hóa ra ta là lính đánh thuê của Mỹ sao?

   Nay đọc những lời ông Nguyễn Tiến Hưng viết về sự phản bội của Hoa Kỳ và kế hoạch “tháu cáy” của Tướng Nguyễn Văn Thiệu, tôi có cảm tưởng câu chuyện này gióng như câu chuyện nói trên.

  Chúng tôi thấy rằng lư do Đồng Minh bỏ rơi VNCH là một vấn đề cần được nghiên cứu lại để rút kinh nghiệm lịch sử hơn là ngồi nguyền rủa Mỹ. Đọc cuốn “Vietnam Chronicles: The Abrams Tapes 1968-1972” của Nathan Alexander sẽ giúp chúng ta biết thêm nhiều chuyện. Người Mỹ phải bảo vệ đất nước họ và giới tài phiệt của họ hơn là bảo vệ quyền lợi của VNCH.

Tú Gàn