Giữa những ngày giữa hè nóng bỏng này, trong khi một số “nhà bất đồng chính kiến”
(hay c̣n được gọi là các nhà dân chủ) đang hưởng giây phút vinh danh và tự do
giao kết ít ỏi tại bữa tiệc chiêu đăi do Lănh sự quán Hoa Kỳ tổ chức nhân ngày
Quốc khánh Hoa Kỳ
[1] th́ hai nhân
vật nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ là Đỗ Minh Tuấn và Trần Mạnh Hảo lại đang
kịch chiến trên trang mạng talawas và công khai phê phương án chế độ và bày tỏ
quan điểm ly khai chính thống của ḿnh. Trong khi đó, “con hùm xám đường 4”
một thời, tướng Đặng Văn Việt lại chọn đài RFA để phàn nàn rằng việc hệ thống
tiếp tục bám víu lấy những quan điểm lạc hậu như độc quyền lănh đạo [của Đảng
Cộng sản] đang gây cản trở sự phát triển của xă hội
[2] . Cách đây không lâu, nghệ sĩ nhân dân Trần Văn Thuỷ
[3] c̣n chọn VietnamNet - một diễn đàn
chính thống của chế độ - để thẳng thừng chỉ trích rằng hệ thống chính trị hiện
tại không hề có dân chủ.
Những diễn biến như thế cho chúng ta một không khí dân chủ sôi nổi và khiến
chúng ta có cảm tưởng lạc quan rằng phong trào bất đồng chính kiến của Việt
Nam hẳn đang có dấu hiệu lớn mạnh và các trí thức/văn nghệ sĩ cùng các cựu
chiến binh ngày càng sẵn sàng lên tiếng ly khai chính thống. Có thực sự là
phong trào dân chủ đang tiến những bước dài rất đáng lạc quan không? Bài
nghiên cứu này muốn đưa ra một cách nh́n khác về bất đồng chính kiến ở Việt
Nam và tập trung phân tích sự h́nh thành của không gian công phi chính
thống cũng như vai tṛ tiềm tàng của nó trong việc đem lại sự chuyển biến
về chất cho “phong trào” bất đồng chính kiến.
Bất đồng chính kiến ở Việt Nam
Năm năm trước, trong một nghiên cứu hiếm hoi về phong trào bất đồng chính kiến
ở Việt Nam, Zachary Abuza nhận xét rằng bất đồng chính kiến ở Việt Nam c̣n non
trẻ, yếu ớt, không được giới trí thức ủng hộ và bị chia rẽ do nguồn gốc đa dạng
và phức tạp của những người tham gia phong trào này. Khi nói về hiện trạng và
thiếu sót của phong trào, ông viết:
“… có ít trí thức dám tḥ cổ ra thách thức lại nhà nước v́ nhà nước kiểm
soát công ăn việc làm của họ. Đây là một khó khăn thực sự nếu [phong trào
bất đồng chính kiến] muốn đạt được cơ sở ủng hộ rộng răi hơn từ giới tinh
hoa nhằm kêu gọi nhà nước thay đổi các chính sách hiện hành của họ. Như ông
Tiêu Dao Bảo Cự, một nhà bất đồng chính kiến từng than thở: “Trong cuộc đấu
tranh cho dân chủ ngày hôm nay, trí thức đáng lẽ ra phải nắm ngọn cờ đầu. Nhưng
liệu có phải thế không? Hay là ngược lại? Phải chăng sâu thẳm bên trong, trí
thức ghét sợ dân chủ, v́ dân chủ có thể đưa đến việc họ bị mất các đặc quyền
đặc lợi vốn được coi là của riêng họ qua bao đời.” Ông đă đưa ra một nhận định
quan trọng. Lư do ǵ khiến các nhà bất đồng chính kiến không huy động được
nhiều người đi theo ḿnh? Lư do nằm ở sự thiếu sót của phong trào: Họ gặp
khó khăn thực sự khi làm việc cùng với nhau. Điều này dễ hiểu thôi nếu chúng
ta biết tất cả các nguồn gốc bất đồng xuất phát từ đâu. Các nhà bất đồng
chính kiến bao gồm những động viên cộng sản kỳ cựu, những người ủng hộ chế
độ Sài G̣n cũ, các tu sĩ Phật giáo và các trí thức chỉ muốn quyền tự do bày
tỏ ư kiến. Họ thường không tin tưởng nhau, và do bị chia rẽ, Hà Nội có thể
cô lập và kiểm soát họ.”
[4]
Abuza đă đúng khi nhận định rằng thành phần bất đồng chính kiến của Việt Nam
rất đa dạng và chính v́ thế, họ hầu như không t́m được tiếng nói chung. Ngoài
nguồn gốc đa dạng và số lượng ít ỏi mà Abuza đă đề cập (ít nhất 54 người theo
Ân xá Quốc tế và khoảng 200 người theo Bộ Ngoại giao Mỹ
[5] ), bất đồng chính kiến ở Việt
Nam tính đến thời điểm hiện tại c̣n có hàng loạt những bất lợi khác: Thứ nhất,
họ sống rải rác trên nhiều địa phương khắp cả nước, từ Hà Nội, Hải Pḥng tới
Đà Lạt, Sài G̣n. Hà Nội và Sài G̣n là 2 thành phố tập trung các nhà bất đồng
chính kiến đông đảo nhất. Tuy nhiên, trong số những người có tên tuổi được
biết đến rộng răi, th́ ngay cả ở hai thành phố này, con số cũng chỉ đếm trên
đầu ngón tay.
Thứ hai, nghiên cứu của Abuza cho thấy phần lớn trong số các nhà bất đồng
chính kiến là những người cao tuổi. Trong số 25 nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng
nhất mà Abuza khảo sát năm 2000, độ tuổi trung b́nh của họ là 62
[6] . Gần đây có xuất hiện một số
nhân vật trẻ tuổi hơn, nhưng số này nhanh chóng bị bỏ tù với những mức
án nặng nề. Có người sau khi ra tù đă không tiếp tục lên tiếng nữa (ví dụ trường
hợp của Lê Chí Quang).
Với tư cách là một nhà quan sát nước ngoài, những nhận xét của Abuza đă là
những đóng góp tiên phong, rất hữu ích cho một hướng nghiên cứu xă hội c̣n đang
bỏ ngỏ ở Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng những hạn chế sâu sắc khiến
cho các nhà bất đồng chính kiến không thể “huy động được nhiều người đi theo
ḿnh” không chỉ bao gồm số lượng ít ỏi và sự đa dạng về nguồn gốc như Abuza
chỉ ra [7] . Trong tiểu luận này,
chúng tôi xin bổ sung thêm những hạn chế khác của bất đồng chính kiến ở Việt
Nam.
Một điểm dễ nhận thấy là các nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam chưa bao giờ
được dân chúng coi là các biểu tượng cho đạo đức và lương tri dân tộc. Dĩ
nhiên họ cũng có một số cảm t́nh viên từ các tầng lớp xă hội, nhưng hào quang
của họ không vượt ra ngoài những ṿng gia đ́nh và bè bạn và những người đă
biết về họ khá rơ. Một phần lớn những người ít biết về các nhà bất đồng chính
kiến này khi nghe nói đến các hành động/quan điểm của họ th́ hoặc cho họ là
những người gàn dở bất đắc chí, hoặc ít nhiều nghi kỵ về động cơ của các nhà
bất đồng chính kiến khi họ chọn cho ḿnh con đường đối lập trực diện với hệ
thống. V́ thế, ở mức độ nào đó, họ bị cô lập khỏi xă hội và không được các
thành phần xă hội khác như sinh viên, trí thức, công nhân và nông dân ủng hộ.
Điểm bất lợi thứ tư là họ không có hoặc có rất ít sáng kiến vận động xă hội,
và do đó thường chỉ khẳng định lập trường bất đồng bằng một số bài viết và
dừng lại ở đó. Thực ra, điều này cũng dễ hiểu nếu chúng ta đă nhận ra các điểm
yếu trước như không có tiếng nói chung, sống tản mát khắp nơi, tuổi cao và bị
quản chế chặt chẽ. Sáng kiến vận động xă hội cần có môi trường màu mỡ để h́nh
thành, và một trong những điều kiện tiên quyết là cần có môi trường để thảo
luận/trao đổi và cọ xát. Việc đứng ra xin lập Hội Nhân dân Việt Nam ủng hộ Đảng
và Nhà nước chống tham nhũng” của hai ông Trần Khuê và Phạm Quế Dương
[8] có thể coi là một trong những
sáng kiến ít ỏi xuất hiện trong điều kiện tương đối thuận lợi của những năm
2001-2002, khi Đảng cộng sản c̣n đang bối rối với những chỉ trích gay gắt về
vấn đề biên giới và cơ cấu quyền lực trong bộ máy c̣n đang trong giai đoạn
củng cố sau Đại hội IX. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp của sáng kiến này
th́ số người kư đơn quanh quẩn vẫn là các nhà bất đồng chính kiến đă có tên
tuổi chứ không hề có sự tham gia từ bên ngoài. Sự cô lập của các nhà bất đồng
chính kiến (điểm yếu thứ 3 nêu trên) được thể hiện khá rơ ràng trong ví dụ này.
Thứ năm là họ không được tiếp cận hoặc không chủ động t́m cách tiếp cận với
các lư thuyết về chuyển đổi dân chủ, với thực tiễn sinh động và các kinh
nghiệm đấu tranh của các phong trào dân chủ/nhân quyền khắp nơi trên thế giới.
Thật đáng ngạc nhiên là cho đến thời điểm này, đại bộ phận giới trí thức, bao
gồm cả trí thức bất đồng chính kiến chưa biết ǵ về các khái niệm vốn đă trở
thành phổ biến trong các xă hội hiện đại như “xă hội dân sự” (civil society)
[9] , “quyền lực của những người
không có quyền lực
[10] ” (power
of the powerless), các lư thuyết về đấu tranh bất bạo động
[11] (nonviolence); những thành
công vĩ đại, những gương mặt lỗi lạc, nguồn cảm hứng và các bài học kinh
nghiệm phong phú của các phong trào đấu tranh dân chủ trên thế giới
[12] . Ngay cả Trần Mạnh Hảo, người
gần đây đă lên án gay gắt bản chất của chế độ hiện hành
[13] cũng suy diễn một cách đơn
giản và ngây ngô rằng “xă hội dân sự = xă hội dân làm chủ mọi sự”. Hay như Đỗ
Minh Tuấn, trong một bài báo dài khẳng định dứt quát lập trường ly khai chính
thống của ḿnh
[14] (cái mà ông
gọi là “rửa tay gác kiếm”) cũng không rơ ràng hơn. Ông lầm lẫn giữa các thành
quả cá nhân, khoảng tự do cá nhân hoặc khả năng gây ảnh hưởng lên hệ thống của
cá nhân với tư cách là một người nằm trong hệ thống hoặc gắn bó với hệ
thống, sử dụng các quan hệ cá nhân và hướng vào các mục tiêu cá nhân với
khái niệm quyền lực của con người trong xă hội dân sự theo nghĩa thực của nó
[15] .
Việc thiếu các lư thuyết và các bài học kinh nghiệm của các phong trào dân chủ
của thế giới cũng một phần giải thích hiện tượng thiếu sáng kiến vận động xă
hội của các nhà bất đồng chính kiến Việt Nam. Nó cũng là một trong những lư do
giải thích v́ sao không có nhiều nhân vật trong giới tinh hoa ủng hộ hoặc tham
gia vào nhóm bất đồng chính kiến. Không được trang bị thông tin và lư thuyết
cần thiết, kể cả những người đă “thức tỉnh” cũng cảm thấy bất lực và buông
xuôi, không dám quan hệ với những người bất đồng chính kiến thành danh, chứ đừng
nói là có ư định trở thành một trong số họ.
|
Một bất lợi khác của bất đồng chính kiến ở Việt Nam là quan tâm đơn chiều.
Tuyệt đại đa số các nhà bất đồng chính kiến tập trung vào phê phán chính trị
trực diện với hệ thống thượng tầng. Ngoài hai ngoại lệ hi hữu là hai cuộc vận
động chống tham nhũng và chống các hiệp ước về chủ quyền lănh thổ được cho là
bất b́nh đẳng
[16] , họ chủ yếu
tập trung vào đ̣i hỏi tự do báo chí, tự do bày tỏ chính kiến, đ̣i dân chủ pháp
trị. Họ không quan tâm đến các biểu hiện sinh động của sinh hoạt dân chủ trong
đời sống, và v́ thế, không hướng vào đấu tranh nhằm h́nh thành hoặc mở rộng
các biểu hiện sinh động ấy. Tự do báo chí hoặc tự do ngôn luận là cái xa lạ
với những người lao động Việt Nam b́nh thường, vốn ít khi dành thời gian đọc
báo và không quan tâm đến chính trị. Với những người nông dân mất đất do nhà
nước thu hồi để xây các khu công nghiệp, thương mại và giải trí, nhu cầu này
có vẻ hiện thực hơn. Nhưng tiếc thay, ngoài ngoại lệ hi hữu là Nguyễn Khắc
Toàn, một nhà bất đồng chính kiến đang ngồi tù
[17] - người đă đứng ra giúp nông dân thảo đơn kêu oan với
chính phủ, hoặc Phương Nam, một nhà bất đồng chính kiến mới xuất hiện, gần đây
đă chụp ảnh với những người dân quận B́nh Thạnh, Sài G̣n ra Hà Nội
khiếu kiện
[18] , th́ chẳng có ai
nào đứng ra giúp dân chúng minh biện các nhu cầu của họ và lên tiếng cho các đ̣i
hỏi của họ.
Nếu những bài báo dài dằng dặc trên tạp chí Cộng Sản không hấp dẫn được quần
chúng, th́ những bài phê phán nghiêm khắc chủ nghĩa Marx của các nhà bất đồng
chính kiến đăng trên các trang mạng cũng xa lạ như thế. Cái chính trị mà dân
chúng quan tâm là cái chính trị biểu hiện cụ thể trong cuộc sống sinh hoạt hằng
ngày chứ không phải cái đúng sai của một học thuyết mà họ chẳng bao giờ quan
tâm đến. V́ thế, khẩu hiệu đổi mới chính trị mà những nhà bất đồng chính kiến
này đưa ra vừa bị chính quyền hằn học, vừa bị quần chúng thờ ơ. Chúng thiếu
cái sinh khí xă hội và trở nên khô cứng không khác ǵ những giáo điều của hệ
thống. Nếu khẩu hiệu mà hệ thống đưa ra là giáo điều th́ các khẩu hiệu mà các
nhà bất đồng chính kiến đưa ra cũng không kém giáo điều hơn, v́ chúng không được
chi tiết hoá bằng những diễn biến hiện thực của cuộc sống.
Thứ bảy, họ là những người phê phán hệ thống, nhưng không phải là những người
thách thức hệ thống bằng một mô h́nh khác được minh biện kỹ lưỡng. (Có
lẽ Abuza cũng ít nhiều ám chỉ điều này khi ông gọi họ là các nhà đối lập trung
thành (loyal opposition)). Các nhà bất đồng chính kiến Việt Nam nhiều khi cũng
nói đến một thể chế dân chủ pháp trị thay thế cho thể chế cộng sản, nhưng đă
không có một nỗ lực cụ thể nào hướng tới việc nghiên cứu nền dân chủ phương
Tây và cấu trúc nên các mô h́nh dân chủ cho một xă hội phương Đông chậm phát
triển và có nhiều điểm đặc thù như Việt Nam. Điều này không phải là khó hiểu,
v́ các tài liệu nghiên cứu về dân chủ phương Tây bằng tiếng Việt hầu như không
tồn tại ở Việt Nam sau năm 1975. Khả năng tiếp cận vào kho kiến thức chính trị
của thế giới từ trong nước trở nên cực kỳ hạn chế và đ̣i hỏi vốn tiếng Anh tốt
- là cái mà tuyệt đại đa số các nhà bất đồng chính kiến cao tuổi không có được.
Có lẽ Phạm Hồng Sơn là người đầu tiên trong số các nhà bất đồng chính kiến trẻ
hơn của Việt Nam đă nh́n ra tầm quan trọng của việc nghiên cứu mô h́nh thay
thế này và ông đă thực hiện việc dịch tập tài liệu “thế nào là dân chủ”.
Có lẽ v́ Đảng Cộng sản cũng nh́n thấu mối nguy hiểm tiềm tàng của việc hiện
hữu một mô h́nh thay thế, họ đă tống giam ông với mức án hà khắc
[19] .
Điều ǵ khiến bất đồng chính kiến ở Việt Nam mang trong ḿnh những hạn chế như
thế? Và làm thế nào để bất đồng chính kiến thực sự là một phong trào với diện
mạo mới và sức mạnh mới khác hẳn với giá trị tượng trưng của bất đồng chính kiến
hiện nay? Chúng tôi sẽ cố gắng giải quyết những câu hỏi này bằng việc phân
tích nguồn gốc của các nhà ly khai, và việc thiếu vắng một không gian công phi
chính thống, trong các phần sau.
(Tác giả xin chân thành cảm ơn Khải Minh đă có những góp ư quan trọng giúp
nâng cao chất lượng của bài viết.)
© 2005 Duy Tân Trẻ
© 2005 talawas |
[1]RFA:
Tổng Lănh sự Hoa Kỳ tại Sài G̣n mở tiếp tân có sự tham dự của đại diện tôn
giáo và các nhà dân chủ Việt Nam; phát thanh ngày 5 tháng 7 năm 2005
[2]RFA:
Cảm tưởng của ông Đặng Văn Việt về Dự thảo Báo cáo Chính trị cho Đại hội
10. Phát thanh ngày 6 tháng 7 năm 2005
[3]VietnamNet:
Xây dựng h́nh ảnh đất nước Việt Nam mới; đưa lên mạng ngày 29 tháng
4 năm 2005
[4]Zachary Abuza:
Loyal Opposition: The Rise of Vietnamese Dissidents; Havard Asia
Quarterly, Volume IV, No. 2. Spring 2000.
[5]Zachary Abuza: ibid
[6]Zachary Abuza: ibid
[7]Zachary Abuza: ibid
[8]Xem đơn xin thành lập Hội nhân
dân ủng hộ đảng và nhà nước chống tham nhũng tại:
http://www.ykien.net/vdhchongtn.html
[9]Theo Larry Diamond: “Xă hội dân
sự ở đây được hiểu là một mảng của đời sống xă hội có tổ chức, mang tính tự
nguyện, tự tái tạo, (hầu như) tự tài trợ, độc lập với nhà nước, và gắn bó với
nhau bằng một trật tự pháp lư hay một số nguyên tắc chung. Nó khác với “xă hội”
nói chung ở chỗ nó gồm các công dân hành động tập thể trong môi trường công
(public sphere) để thể hiện các lợi ích, quan tâm và các ư tưởng của họ, cũng
như trao đổi thông tin, giành các mục tiêu chung, yêu sách với nhà nước, và
trông chừng các quan chức. Xă hội dân sự là một thực thể trung gian, nằm giữa
môi trường tư (private sphere) và nhà nước. Như vậy, nó loại trừ đời sống cá
nhân và gia đ́nh, các hoạt động nhóm hướng nội (ví dụ như thể thao, giải trí
hay tâm linh), các hoạt động kiếm lời của các doanh nghiệp, và các nỗ lực
chính trị nhằm giành quyền kiểm soát chính quyền. Các nhân vật trong xă hội
dân sự cần sự bảo vệ bởi một trật tự pháp luật được thể chế hoá nhằm bảo đảm
quyền tự trị của họ và quyền tự do hành động. Do đó, xă hội dân sự không chỉ
hạn chế sức mạnh nhà nước mà c̣n đem lại chính nghĩa cho quyền lực nhà nước,
khi quyền lực đó dựa trên pháp quyền (rule of law). Khi bản thân nhà nước lại
không có luật lệ và coi thường quyền tự trị của cá nhân và các nhóm, xă hội
dân sự vẫn có thể tồn tại (dù chỉ dưới h́nh thức sơ khai hay hoang tàn) nếu như
các thành tố của nó vận hành theo một nhóm các nguyên tắc được chia sẻ (thí dụ
như những [nguyên tắc] tránh sử dụng bạo lực và tôn trọng đa nguyên). Đây là điều
kiện không thể tối giản trong chiều cạnh “dân sự” của nó.” Để hiểu thêm về xă
hội dân sự và vai tṛ của nó, bạn đọc có thể tham khảo các bản dịch trong
series “xă
hội dân sự” do nhóm Duy Tân Trẻ dịch và giới thiệu trên talawas.
[10]Đón xem chính luận “Quyền lực
của không quyền lực” của Vaclav Havel do nhóm Duy Tân Trẻ dịch và chuẩn bị cho
ra mắt bạn đọc trong thời gian gần.
[11]Đón xem chuỗi bài về Bất bạo động
do nhóm Duy Tân Trẻ dịch và chuẩn bị cho ra mắt bạn đọc.
[12]Bạn đọc có thể tham khảo trong
series bài về
Giải
Nobel Ḥa b́nh do Duy Tân Trẻ giới thiệu trên talawas.
[13]Trần Mạnh Hảo:
Con
người có quyền lực ǵ trong một xă hội phi dân sự?; talawas,
Tháng 6, 2005.
[14]Đỗ Minh Tuấn:
Quyền
lực con người trong xă hội dân sự; talawas, Tháng 6, 2005
[15]Trong lư thuyết chính trị học
hiện đại, quyền lực con người trong xă hội dân sự được hiểu là quyền lực của
những người không có quyền lực khi, bằng hành vi của ḿnh, họ bộc lộ bản chất
thực của hệ thống mà nhà cầm quyền luôn t́m cách che giấu, và bằng việc liên
kết với nhau để h́nh thành một xă hội song song (với nền văn hóa song song, cơ
sở kinh tế song song và hệ tư tưởng song song) họ làm xói ṃn cơ sở quyền lực
của nhà cầm quyền, hoặc bằng việc tự tổ chức lại, họ trở thành những chủ thể
quyền lực có sức mặc cả với hệ thống.
[16]Ngay cả trong trường hợp đấu
tranh chống tham nhũng (hay nói chính xác hơn là lên án tham nhũng) và đấu
tranh bảo vệ lănh thổ (đúng hơn là lên án Đảng Cộng sản nhượng đất cho Trung
Quốc) th́ các nhà bất đồng chính kiến cũng thường đi đến cùng của vấn đề và
thường là dẫn tới những đ̣i hỏi dân chủ.
[17]Amnesty International trong
thông cáo báo chí số 240, ra ngày 20 tháng 12 năm 2002 đă nói về Nguyễn Khắc
Toàn như sau: “…ông được cho là đă phát tán tài liệu về các cuộc biểu t́nh tại
Hà Nội và các thư thỉnh nguyện của nông dân lên án t́nh trạng bị chính quyền
cướp đất ra cho các nhóm vận động Việt Nam ở nước ngoài. Rơ ràng là ông
cũng giúp các đại diện của nông dân khi họ có mặt ở Hà Nội như thảo giúp các
thỉnh nguyện thư gởi chính phủ.” (kiểu chữ nghiêng do tác giả thêm vào)
[18]Xem thư và h́nh ảnh của Phương
Nam chụp chung với nhóm người biểu t́nh tại:
http://www.ykien.net/khieukien07.html
[19]Theo thông cáo báo chí ra ngày
1 tháng 6 năm 2005 của Amnesty International: “Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, 37 tuổi,
một thương gia và một bác sĩ có tài, bị bắt ngày 27 tháng 3 năm 2002 v́ đă viết
và gửi các bài bộ áo về dân chủ và nhân quyền lên Internet. Tại phiên ṭa xét
xử ông vào ngày 18 thágn 6 năm 2003, ông bị kết tội “gián điệp” theo điều 80,
bộ luật h́nh sự và bị kết án 13 năm tù giam cộng thêm 3 năm quản chế sau khi
ra tù. Ông hiện đang bị giam giữ tại trại giam Yên Định, Thanh Hóa”
Xem:
http://web.amnesty.org/library/Index/ENGASA410182005
|